giống tori
Giống ngựa

giống tori

giống tori

Lịch sử của giống chó

Ngựa Tori là một giống ngựa kéo linh hoạt. Giống này được nhân giống ở Estonia. Nó đã được phê duyệt là một giống độc lập vào tháng 1950 năm 1855. Nhân giống chính của giống này được tạo ra tại trang trại Tori stud, được tổ chức vào năm 26, cách thành phố Pärnu XNUMX km.

Ở Estonia, một con ngựa nhỏ bản địa của Estonia đã được nhân giống từ lâu, thích nghi hoàn hảo với điều kiện địa phương, sở hữu sức bền vượt trội, dáng đi nhanh và nhu cầu thấp.

Tuy nhiên, do chiều cao và cân nặng nhỏ nên chưa đáp ứng được nhu cầu ngựa nông nghiệp hạng trung và nặng, đặt ra nhiệm vụ phải tạo ra giống ngựa to hơn, sức chở lớn hơn, thích nghi với điều kiện địa phương.

Khi nhân giống, các phép lai phức tạp đã được thực hiện. Những con ngựa cái địa phương lần đầu tiên được cải tiến với giống ngựa Phần Lan, Ả Rập, thuần chủng, chạy nước kiệu Oryol và một số giống khác. Sau đó, những con vật có nguồn gốc lai được lai với những con ngựa giống của giống chó kéo xe Norfolk và hậu Breton, điều này có tác động lớn nhất đến những phẩm chất hữu ích của ngựa Tori.

Tổ tiên của giống ngựa này được coi là con ngựa đỏ Hetman, sinh năm 1886. Năm 1910, tại Triển lãm Ngựa toàn Nga ở Moscow, hậu duệ của Hetman đã được trao huy chương vàng.

Ngựa Tori hiền lành, dễ cưỡi, không lém lỉnh. Nó được phân biệt bởi sức chịu đựng và khả năng chuyên chở tuyệt vời, kết hợp với tính cách thích nghi, khiêm tốn và khả năng tiêu hóa thức ăn tốt. Ngựa trở nên phổ biến ở Estonia, Latvia, Litva, Belarus và được đánh giá cao ở đây với tư cách là ngựa nông nghiệp và chăn nuôi.

Hiện nay, giống ngựa Tori đang được cải tiến theo hướng tạo thuận lợi và thu được ngựa cưỡi (thể thao) và ngựa đi bộ. Để làm được điều này, chúng được lai với những con ngựa giống cưỡi ngựa (chủ yếu là với Hanoverian và Trakehner).

Với tư cách là người cải tiến, ngựa thuộc giống Torian được sử dụng trong các trang trại ở vùng tây bắc của Nga và Tây Ukraine.

Đặc điểm bên ngoài của giống

Ngựa Tori được phân biệt bởi một hiến pháp hài hòa. Ngựa có chân ngắn, thân dài tròn với phần ngực rộng, tròn và sâu. Chúng có chân tay khô và hệ cơ phát triển tốt, đặc biệt là ở cẳng tay. Cái mông rộng và dài. Ngựa có đầu cân đối, trán rộng, sống mũi rộng, lỗ mũi rộng, khoảng cách giữa hai hàm rộng; cổ của chúng vạm vỡ, không dài, thường bằng chiều dài của đầu. Vai nhiều thịt, thấp, rộng. Chiều cao trung bình ở phần héo là 154 cm.

Hơn một nửa số ngựa thuộc giống Tori có màu đỏ, thường có các đốm trắng khiến chúng rất thanh lịch, khoảng một phần ba là ngựa vằn, ngoài ra còn có màu đen và tiếng kêu.

Ứng dụng và thành tựu

Ngựa Tori được sử dụng trong công việc nông nghiệp và trong các môn thể thao cưỡi ngựa, chủ yếu trong các cuộc thi vượt chướng ngại vật.

Trong các thử nghiệm về khả năng chịu tải tối đa, ngựa Tori đã cho kết quả xuất sắc. Con ngựa giống phá kỷ lục Hart chở được 8349 kg. Tỷ lệ giữa trọng lượng sống và tải trọng của nó là 1:14,8. Con ngựa giống Khalis chở được 10 kg; trong trường hợp này tỷ lệ là 640:1.

Được khai thác trên một chiếc xe đẩy bình thường dọc theo con đường đất với hai người cưỡi, ngựa Tori di chuyển với tốc độ trung bình 15,71 km mỗi giờ. Hiệu quả và sức bền của ngựa Tori được đánh giá cao không chỉ trong các cuộc thử nghiệm đặc biệt mà còn khi làm việc với các nông cụ và vận chuyển đồ gia dụng.

Kỷ lục của giống ngựa này là ngựa cái của Herg, sinh năm 1982, đã chạy quãng đường 2 km trên một toa xe có tải trọng 1500 kg trong 4 phút 24 giây. Thời điểm tốt nhất để giao hàng theo từng bước đã được thể hiện bởi một chú ngựa giống mười tuổi của Liên minh. Anh lái một toa xe có tải trọng 4,5 tấn đi quãng đường 2 km hết 13 phút 20,5 giây.

Bình luận